Giá vàng miếng SJC ngày 19/03 lao dốc gần nửa triệu đồng/lượng

Phản hồi: 1

Giá vàng miếng SJC tại các thương hiệu hôm nay đồng loạt giảm mạnh 500 nghìn đồng/lượng và giao dịch trong ngưỡng 78,9 triệu đồng/lượng chiều mua vào và bán ra ở mức 81,4 triệu đồng/lượng. So với mức đỉnh được thiết lập vào đầu tuần trước, giá vàng giảm hơn 1 triệu đồng/lượng.

Cập nhật vào sáng ngày 19/03, Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn niêm yết giá vàng SJC ở mức 79,4 – 81,4 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), tăng 200 nghìn đồng/lượng chiều mua vào và giảm 300 nghìn đồng/lượng chiều bán ra so với phiên đầu ngày hôm qua.

gia vang ngay 2 10 2023
Giá vàng miếng SJC ngày 19/03 lao dốc gần nửa triệu đồng/lượng

Giá vàng tại Tập đoàn Vàng bạc đá quý DOJI giao dịch ở mức 79,30 – 81,30 triệu đồng/lượng mua vào – bán ra, giảm 100 nghìn đồng/lượng mỗi chiều mua vào và bán ra so với phiên đầu ngày hôm qua.

Giá vàng tại Bảo Tín Minh Châu được niêm yết ở mức 79,60 – 81,40 triệu đồng/lượng mua vào – bán ra, giữ nguyên chiều mua vào và giảm nhẹ 50 nghìn đồng/lượng chiều bán ra.

Giá vàng SJC tại thương hiệu vàng PNJ đang mua vào ở mức 79,40 triệu đồng/lượng và bán ra mức 81,40 triệu đồng/lượng, giảm 300 nghìn đồng/lượng mỗi chiều mua vào và bán ra.

Giá vàng trong nước trong thời gian gần đây liên tục biến động theo giá vàng thế giới khi tăng, giảm từ vài trăm đến vài triệu đồng/lượng ngay trong ngày. Điều này khiến nhiều nhà đầu tư cảm thấy bất an vì không thể dự đoán được diễn biến tiếp theo của vàng.

Điển hình như diễn biến trong ngày 13/03 vừa qua. Sau khi lập đỉnh ở mức giá 82,5 triệu đồng/lượng, giá vàng miếng SJC đã quay đầu giảm tới 2,7 triệu đồng/lượng ở chiều bán so với phiên giao dịch buổi sáng và mất mốc 80 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên chỉ ngày hôm sau lại vọt tăng gần 2 triệu đồng/lượng, về lại ngưỡng 81,5 triệu đồng.

Giá vàng mấy phiên gần đây biến động tăng giảm đan xen quanh mức 81,5 triệu đông. So với mức đỉnh thì giá vàng đã rớt giá 1,5 triệu đồng/lượng. Tình theo chênh lệch giá mua – bán, những nhà đầu tư mua vào đúng vùng đỉnh và bán ra thời điểm này sẽ phải chịu lỗ khoảng 3 triệu đồng/lượng.

Giá vàng trong nước ngày 19/03/2024 niêm yết như sau:

Sản phẩm Hôm nay (28-04-2024) Hôm qua (27-04-2024)
Giá mua Giá bán Giá mua Giá bán
SJC - TP. Hồ Chí Minh 83.000 85.200 83.000 85.200
PNJ - TP. Hồ Chí Minh 83.000 85.200 83.000 85.200
PNJ - Hà Nội 83.000 85.200 83.000 85.200
PNJ - Đà Nẵng 83.000 85.200 83.000 85.200
DOJI - TP. Hồ Chí Minh 82.600 84.800 82.600 84.800
DOJI - Hà Nội 74.250 75.250 74.250 75.250
DOJI - Đà Nẵng 82.600 84.800 82.600 84.800
Phú Quý - Hà Nội 83.200 85.200 83.200 85.200
Bảo Tín Minh Châu - Hà Nội 83.250 85.100 83.250 85.100
Mi Hồng - TP. Hồ Chí Minh 82.700 84.100 83.000 84.500

Cùng thời điểm, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco niêm yết ở mức 2.156 USD/ounce. Quy đổi theo tỷ giá USD/VND hiện hành thì vàng thế giới có giá khoảng 63,5 triệu đồng/lượng (chưa tính thuế, phí), thấp hơn vàng miếng SJC hơn 18 triệu đồng/lượng và thấp hơn giá vàng nhẫn khoảng 5 triệu đồng/lượng.

Giá vàng thế giới đi ngang trước thềm cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) về việc giảm lãi suất trong cuộc họp diễn ra vào hôm nay và ngày mai. Nhà đầu tư đang chờ đợi quan điểm rõ ràng hơn của FED để xác định thời điểm dự kiến bắt đầu cắt giảm lãi suất điều hành và mức độ cắt giảm dự kiến trong năm nay.

Các chuyên gia dự báo, sẽ không có đợt cắt giảm lãi suất nào được đưa ra và FED sẽ giữ nguyên lãi suất lần thứ 5 liên tiếp. Tuy nhiên, hướng đi của vàng chủ yếu sẽ phụ thuộc vào những gì Chủ tịch Fed Jerome Powell nói.

Theo nhận định, bất kỳ một phát biểu “diều hâu” nào liên quan đến việc đẩy lùi thời điểm cắt giảm lãi suất cũng có thể tạo ra biến động mạnh theo chiều đi xuống cho kim loại quý. Ngược lại, bất kỳ tín hiệu nào về việc FED sẽ cắt giảm lãi suất từ tháng 6 đều có thể mang lại một “cú huých” lớn khiến giá vàng leo thang.

Ngoài cuộc họp chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ, thị trường trong tuần này còn đón chờ các cuộc họp chính sách tiền tệ của một loạt ngân hàng trung ương lớn, gồm Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ), Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA), Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) và Ngân hàng Trung ương Anh (BOE).


5/5 - (1 bình chọn)